Tiêu thụ xe máy, ôtô ở Việt Nam lần lượt xếp thứ hai và thứ tư ở Đông Nam Á sau Indonesia, Thái Lan.
So với cùng kỳ 2020, các thị trường ôtô, xe máy hàng đầu khu vực Đông Nam Á (ASEAN) trong nửa đầu 2021 đều tăng trưởng về sức mua lẫn lượng sản xuất xe nội địa. Đây là hai trong số những tiêu chí quan trọng, đánh giá về tiềm năng tăng trưởng (xét cùng quy mô dân số và tình hình kinh tế) cũng như vị thế của ngành công nghiệp ôtô, xe máy của một quốc gia.
So với các nước trong khu vực như Thái Lan, Indonesia, Malaysia, tiêu thụ ôtô của người Việt không cao bằng nhưng xe máy lại thuộc top đầu.
Theo thống kê của Hiệp hội các nhà sản xuất ôtô Đông Nam Á (AAF), thị trường ôtô Việt Nam tiêu thụ 150.481 xe (bao gồm khung chassis xe buýt) nửa đầu 2021. Nếu cộng thêm doanh số của VinFast và TC Motor - hãng bán xe Hyundai, tổng lượng xe mới bán ra ở Việt Nam là 200.454 xe, xếp thứ tư trong khu vực.
Sản lượng xe lắp ráp nội địa của Việt Nam khoảng 97.145 xe. Đây là con số của Hiệp hội các nhà sản xuất ôtô Việt Nam (VAMA), chưa tính lượng xe xuất xưởng của TC Motor, VinFast và các công ty không thuộc VAMA.
Các sản phẩm của TC Motor và VinFast bán ra tại Việt Nam hầu như đều được sản xuất trong nước. Giả sử sản lượng đúng bằng lượng xe bán ra, năng lực sản xuất ôtô của Việt Nam, gồm VAMA (97.145 xe) + TC Motor (33.833 xe, không tính xe CBU) + VinFast (15.938 xe) = 146.916 xe. Mức này cũng xếp thứ tư trong khu vực.
Thái Lan và Indonesia vẫn giữ vị trí đầu tàu của ngành công nghiệp ôtô khu vực về mức tiêu thụ xe mới lẫn sản xuất nội địa. Trong đó Thái Lan sản xuất ôtô gần gấp đôi nhu cầu tiêu thụ xe mới trong nước. Indonesia cũng tương tự nhưng mức chênh lệch ít hơn. Đây là cơ sở để hai quốc gia này xuất khẩu ôtô lượng lớn sang các nước khác. Riêng Việt Nam, lượng xe hai quốc gia này xuất sang đạt 63.475 xe sau 6 tháng đầu 2021, chiếm khoảng 78% tổng lượng nhập, theo Tổng cục Hải Quan.
Làn sóng xe nhập khẩu đổ bộ vào Việt Nam khi thuế ưu đãi 0% áp dụng từ 2018 chủ yếu xuất xứ từ hai quốc gia Indonesia, Thái Lan. Một số mẫu xe nhập từ hai quốc gia này hiện bán chạy hàng đầu tại Việt Nam như Toyota Corolla Cross, Mitsubishi Xpander, bên cạnh đó là các dòng xe bán tải.
So với các nước như Thái Lan, Indonesia, chi phí sản xuất tại Việt Nam cao hơn trong khi dung lượng thị trường nhỏ hơn, công nghiệp phụ trợ yếu hơn. Các hãng vì thế không mặn mà xây dựng nhà máy quy mô lớn để lắp ráp xe ở Việt Nam.
Về nhu cầu mua ôtô mới, người Malaysia tiệm cận người Việt nhất. Tuy nhiên, lượng xe sản xuất nội địa của quốc gia này cao Việt Nam, ở mức 241.288 xe. Bên cạnh nhà máy của các hãng nước ngoài, Malaysia có hai thương hiệu nội địa là Proton và Perodua vốn đứng đầu về thị phần xe bán ra trong nhiều năm qua.
Giá ôtô còn cao hơn nhiều so với mặt bằng thu nhập, xe máy vì thế vẫn là phương tiện dễ sở hữu hơn với người Việt cũng như điều kiện sử dụng, hạ tầng giao thông ở các thành phố lớn, nơi tiêu thụ xe máy nhiều nhất. Thị trường xe máy Việt Nam trong nửa đầu 2021 bán ra hơn 1,3 triệu xe, xếp thứ hai trong khu vực sau Indonesia, hơn 2,4 triệu xe.
Indonesia và Việt Nam hiện xếp lần lượt thứ ba và thứ tư trên thế giới về tiêu thụ xe máy mới hàng năm, sau Ấn Độ và Trung Quốc. Hai hiệp hội xe máy Việt Nam và Indonesia không công bố số lượng xe sản xuất nội địa. Riêng Việt Nam, xe máy bán ra hầu hết đều sản xuất nội địa và con số thực tế cao hơn bởi các hãng môtô và xe máy khác không thuộc Hiệp hội các nhà sản xuất xe máy Việt Nam (VAMM).
Các thành viên VAMM như Honda, Yamaha, Piaggio, Suzuki, SYM đều có nhà máy sản xuất trong nước phục vụ nhu cầu nội địa và xuất khẩu. Giả sử lượng xe bán ra 100% đều sản xuất nội địa, năng lực sản xuất xe máy của các hãng ở Việt Nam khoảng hơn 1,3 triệu xe, đứng đầu khu vực (không kể Indonesia).
Indonesia có quy mô dân số và nền kinh tế đều lớn hàng đầu khu vực, tiêu thụ xe máy lẫn ôtô vì thế đều cao. Các quốc gia như Thái Lan, Philippines, Malaysia hay Singapore đều tiêu thụ xe mới dưới 1 triệu xe sau nửa đầu 2021. Thái Lan là nước có lượng xe sản xuất nội địa lớn hơn nhu cầu tiêu thụ xe máy trong nước.
Quốc gia | Dân số* | Dân số/ôtô | Dân số/xe máy | Xe máy/ôtô |
Thái Lan | 69.996.845 | 163 | 80 | 2 |
Indonesia | 276.770.024 | 703 | 112 | 6,2 |
Malaysia | 32.831.244 | 134 | 124 | 1 |
Việt Nam | 98.321.901 | 490 | 71 | 6,8 |
Nguồn: Liên hợp quốc (UN), tính đến 17/8/2021
Về tỷ lệ sở hữu, trung bình khoảng 490 người Việt thì có một người mua ôtô mới trong nửa đầu 2021. Trong khi đó, Indonesia là 703, tức tới 703 người mới có 1 người mua ôtô. Malaysia và Thái Lan có tỷ lệ mua ô tô tốt hơn, vì chỉ 134 và 163 người đã có 1 người mua ôtô.
Trong khi với xe máy, trung bình khoảng 71 người Việt thì có một người mua xe máy mới. Con số này thấp nhất trong số 4 nước thống kê, nghĩa là người Việt đang mua nhiều xe máy hơn so với các nước, xét trên quy mô dân số.